Post your loglines. Get and give feedback.
1.Tổng quan về bệnh viêm lộ tuyến
Viêm lộ tuyến cổ tử cung là căn bệnh thường gặp ở chị em, nhất là với các người đã kết hôn. Tuyến tử cung là những tuyến phía dưới niêm mạc của tử cung, có tính chất tiết dịch nhờn bôi trơn. Bệnh viêm lộ tuyến cổ tử cung là phần biểu mô phía bên ở trong vùng tử cung bị lộn ra phía ngoài, cũng có thể là sự mở rộng lớp tế bào mỏng khiếm khuyết và không bình thường ở cổ tử cung. Bệnh lý thường thấy ở những nữ giới đã từng sinh em bé, chị em phá thai hoặc là sảy thai...
Theo bác sĩ chuyên khoa, trên thực tế, lộ tuyến cổ tử cung đó là bệnh lý lành tính và khá phổ biến ở phụ nữ. Tuy vậy, điều đáng ngại là, trạng thái này của lộ tuyến sẽ làm tăng sự tiết dịch, tạo nên thuận lợi dành cho những virus, vi khuẩn, ví dụ nhiễm virut chlamydia, virut cầu lậu, vi rút gây nên bệnh Herpes... Sinh sôi. Các bệnh lý lây qua con đường quan hệ này có thể gây ra viêm cổ tử cung, sau đó viêm nhiễm di chuyển lên gây viêm nội mạc tử cung và viêm nhiễm tiểu khung...
Đặc điểm đặc trưng nhất khi bị viêm cổ tử cung là khí hư ra bất thường, khi quan hệ với nhịp độ mạnh “cậu nhỏ” có thể làm tổn thương cổ tử cung, dẫn tới xuất huyết. Do là vùng cổ tử cung không có các thần kinh cảm giác, vì thế nữ giới sẽ không có cảm giác đau.
Khi quan sát bằng mắt thường sẽ thấy phần lộ tuyến có màu đỏ, sần sùi. Nếu kiễm tra tử cung bằng máy sẽ quan sát thấy lớp biểu mô lẽ ra ở lỗ trong cổ tử cung, nhưng đã lan ra phía ngoài che lấp một phần cổ tử cung, ở dưới là lớp đệm, có nhiều mao mạch tạo ra hình ảnh một tổn thương màu đỏ và mấp mô giống như mô hạt.
Dấu hiệu viêm lộ tuyến dễ nhận thấy nhất là khí hư bất thường do các nhân tố gây ra viêm âm đạo như do viêm nhiễm vi nấm hạt men (candida albicans); khí hư có màu trắng đục, dính thành mảng, nhiều lúc có mùi mùi hôi khó chịu; huyết trăng do nhiễm trichomonas vaginalis, màu vàng xanh, bị loãng, sùi bọt, với số lượng nhiều; huyết trắng do tạp trùng, thường liên quan đến gardnerella vaginalis, vi khuẩn yếm khí, mycoplasma… có màu vàng hoặc xám, loãng, bám đều phía trong thành âm đạo, có mùi hôi.
Còn lộ tuyến sâu là khi các lớp tế bào đã biến mất hết, lớp mô đệm phía dưới bộc lộ hẳn lên phía trên bề mặt. Để xem xét chính xác cấp độ tổn thương, cần phải khám và tiến hành xét nghiệm tế bào.
Tình trạng Viêm lộ tuyến có nguy hiểm hay không được chẩn đoán thông qua mức độ thương tổn của tế bào ở mức độ nông hay sâu. Lộ tuyến nông là khu vực tổn thương có thể gặp phải trên diện tích rộng nhưng vùng tế bào liên kết ở phía trên bề mặt chưa hết hẳn. Lộ tuyến sâu là khi các lớp tế bào đã mất hết, lớp tế bào đệm phía dưới lộ ra hẳn lên bề mặt. Để đánh giá chính xác mức độ tổn thương, cần phải khám và làm xét nghiệm tế bào.
Với trường hợp Viêm lộ tuyến nặng, có khả năng ra máu nhẹ sau giao hợp. Từ các dấu hiệu dễ dàng nhận thấy để bệnh nhân phát hiện, nên viêm lộ tuyến cổ tử cung được nhận biết bởi thầy thuốc.
3. Chua viem lo tuyen co tu cung o dau tot
Thông thường, khi bị viêm lộ tuyến cổ tử cung, các thầy thuốc kê đơn thuốc chống viêm tại chỗ để lộ tuyến hết viêm, nhiều khi kết hợp cả thuốc uống nếu lộ tuyến bị nhiễm trùng nặng hoặc nhiễm các tác nhân lây qua đường tình dục.
Sau khi điều trị hết viêm, các phương pháp như đốt điện, đông lạnh, lazer sẽ được áp dụng để điều trị viêm lộ tuyến. Trước khi đốt, các bác sĩ cũng sẽ siêu âm cổ tử cung hoặc làm phiến đồ âm đạo để phát hiện những bất thường của tế bào tử cung.
Khi trị bệnh bằng cách thức diệt tuyến, sẽ ảnh hưởng sâu xuống các lớp niêm mạc nhạy cảm bên dưới, gây biến chứng như xơ hóa, dính tử cung và các tổn thương sâu, lỗ cổ tử cung có thể bị co hẹp, cổ tử cung sẽ hình thành sẹo cứng nên gây khó khăn cho thụ thai.
Cùng với đó, đến khi sinh con, sẹo cứng ở cổ tử cung do đốt có nguy cơ làm tử cung khó mở để chuyển thai ra bên ngoài.
Tổng quát, điều trị tập trung vào hiện trạng viêm nhiễm cấp tính vì nguy cơ nhiễm khuẩn có nguy cơ di chuyển ngược lên tử cung và vòi trứng, và có khả năng gây ra nhiễm trùng máu.
Đối với nhiễm trùng thể mãn tính, việc chữa trị khó khăn vì tác nhân thường khó xác định, nhưng vấn đề quan trọng là theo dõi khả năng biến đổi bất thường tế bào của cổ tử cung nếu bị nhiễm Human papilloma virus.